Quản trị đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Nâng cao năng lực quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ đối với doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhất là trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay. Quản trị công nghệ giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ năng lực của đối thủ và đi trước đối thủ một bước trong đổi mới công nghệ, có các quyết định chính xác mang tính chiến lược về tài chính và phân phối vốn nhằm tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh doanh nghiệp… Trao đổi về việc quản trị đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, bài viết đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao công tác quản trị đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp.

Tầm quan trọng quản trị đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp

Theo ThS. Nguyễn Thị Bích Liên (2017), đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế một phần hay toàn bộ công nghệ đang được sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất - kinh doanh. 

Quan điểm chung đều nhấn mạnh yêu cầu đối với một doanh nghiệp (DN) được xem là đã đổi mới công nghệ là sản phẩm mới phải được đưa ra thị trường (đổi mới sản phẩm), hoặc một quy trình sản xuất mới được đưa vào ứng dụng trong sản xuất - kinh doanh (đổi mới quy trình). 

Thực tiễn những năm qua cho thấy, đổi mới công nghệ là một trong những biện pháp hàng đầu giúp DN nâng cao năng suất, hiệu quả, khả năng cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. 

Đổi mới công nghệ tạo điều kiện cho DN mở rộng thị trường sản phẩm, đồng thời góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm tạo ra các sản phẩm mới, quy trình mới, công nghệ mới. 

Nhờ đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm được nâng lên đồng nghĩa với việc DN sẽ tạo được vị thế bền vững trên thị trường. Đổi mới công nghệ giúp giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh đang ngày càng mang tính sống còn hơn với các DN. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao trở thành “kim chỉ nam” cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN.

Trước xu thế hội nhập sâu rộng cùng khu vực và thế giới của Việt Nam hiện nay, vai trò của quản trị công nghệ trong sản xuất kinh doanh rất lớn như: Bảo vệ được các hoạt động kinh doanh sẵn có sẽ đảm bảo được vị trí cạnh tranh đang có của DN và sản phẩm dịch vụ của DN; Tạo ra cơ hội kinh doanh mới. 

Thông qua việc quản trị đổi mới công nghệ, các nhà quản trị nhận dạng được cơ hội thị trường và phát triển công nghệ, giúp cho DN quyết định được là nên duy trì hay thay đổi các hoạt động kinh doanh, công nghệ, sản phẩm hiện tại, mở rộng sản xuất, hay cần có công nghệ, sản phẩm mới...

Bên cạnh đó, quản trị công nghệ giúp DN đánh giá được một số vấn đề trong tương lai để hoạt động có hiệu quả. Những dự báo này cho thấy sự thay đổi trong tương lai gắn với sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội và giúp cho DN thấy được ai sẽ là đối thủ cạnh tranh trong trung và dài hạn. Quản trị công nghệ cũng giúp DN giảm thiểu rủi ro khi đưa ra quyết định bởi các dự án, nhất là các dự án đổi mới sáng tạo đều có thể gặp rủi ro và chứa đựng nhiều yếu tố không chắc chắn. 

Từ đó, quản trị công nghệ tốt có thể bảo đảm rằng các quyết định đưa ra đã qua một quá trình phân tích sáng suốt. Doanh nghiệp cần thấy rõ được vai trò của quản trị công nghệ là tiến trình liên kết các lĩnh vực khác nhau nhằm hoạch định, phát triển, thực hiện, giám sát và kiểm soát năng lực của mình. Từ đó, hình thành và thực thi các mục tiêu chiến lược phát triển cụ thể trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi DN cần phải hoạch định rõ mục tiêu quản trị công nghệ.

Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, quản trị công nghệ giúp cho DN giành chiến thắng khi tung ra một sản phẩm mới hay một chiêu thức marketing mới nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm hiện có; Giúp cho DN hiểu rõ năng lực của đối thủ và đi trước đối thủ một bước trong việc đổi mới công nghệ. 

Quản trị công nghệ tốt sẽ giúp DN nhìn nhận rõ năng lực thực sự của mình nhằm khắc phục các điểm yếu, nhằm phát huy các điểm mạnh. Từ đó, DN có các quyết định chính xác mang tính chiến lược về tài chính và phân phối vốn cũng như có những quyết định khôn khéo và tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh DN và đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình...

Thực trạng quản trị đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng việc thúc đẩy, hỗ trợ hoạt động đổi mới công nghệ trong DN. Ngày 01/11/2012, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 20/NQ-TW về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. 

Nghị quyết này đã đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2020, thông qua yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) hoạt động khoa học và công nghệ đóng góp khoảng 35% tăng trưởng kinh tế; Xây dựng được một số sản phẩm quốc gia mang thương hiệu Việt Nam; Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp; Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt khoảng 20%/năm...

Ngày 10/5/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 677/QĐ-TTg về việc phê duyệt chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 với mục tiêu cụ thể đến năm 2020: Số lượng DN thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm, trong đó có 5% DN ứng dụng công nghệ cao; 100% DN sản xuất sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm quốc gia làm chủ và tạo ra được công nghệ tiên tiến để sản xuất sản phẩm… 

Ngày 11/4/2012, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 418/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu giai đoạn 2011-2020 tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị giai đoạn 2011-2015 đạt 10-15% và giai đoạn 2016-2020 đạt 20%. 

Mới đây, ngày 16/6/2015, để hỗ trợ DN trong quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ, Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia (Bộ Khoa học Công nghệ) đã được ra mắt với số vốn 1.000 tỷ đồng nhằm hỗ trợ, tài trợ các dự án của DN và cho DN vay được triển khai vào năm 2017…

Trong nhiều năm qua, Chính phủ luôn xác định lấy DN là trung tâm của đổi mới khoa học và công nghệ, xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ của Nhà nước thông qua việc hình thành các Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, Quỹ Đổi công nghệ Quốc gia, các Quỹ hỗ trợ DN vừa và nhỏ từ quy mô quốc gia đến quy mô địa phương, các chương trình quốc gia thuộc các bộ, ngành. 

Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ cũng như của các bộ, ngành trong việc tập trung nỗ lực nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng lấy khoa học và công nghệ và hoạt động đổi mới sáng tạo làm nền tảng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Tuy nhiên, năng lực đổi mới công nghệ của các DN Việt Nam còn khiêm tốn so với các DN các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc DN Việt Nam chủ yếu tham gia ở phân khúc thị trường có giá trị gia tăng thấp, khiến DN thường chậm đổi mới về công nghệ. 

Các DN nhỏ và vừa - đại diện cho phần lớn khu vực tư nhân trong nước thường thiếu công nghệ cần thiết để tăng năng suất. Hiện nay, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở khu vực DN tư nhân chỉ có 10% hiện đại, 38% trung bình, 52% lạc hậu và rất lạc hậu.

Hầu hết DN thiếu vốn để đầu tư đổi mới công nghệ. Kinh phí cho nghiên cứu và phát triển của các DN Việt Nam chỉ ở mức trung bình. Cụ thể, các DN Việt chỉ chi 1,6% doanh thu hàng năm cho R&D, trong khi tỷ lệ này ở Campuchia là 1,9%, Lào 14,5%. 

So với Philippines và Malaysia, Việt Nam cũng thua kém khi mà tỷ lệ dành tiền cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của các DN ở hai nước này lần lượt là 3,6% và 2,6%. 

Ngoài ra, dù đã nỗ lực ban hành và thực thi nhiều chính sách hỗ trợ, song đầu tư của Nhà nước và xã hội cho khoa học công nghệ chưa tương xứng, chưa huy động được nguồn vốn ngoài ngân sách. Cơ chế quản lý có đổi mới nhưng chưa theo kịp với các đòi hỏi của cơ chế thị trường…

Doanh nghiệp chưa quan tâm đến quản trị đổi mới công nghệ

Đầu tư cho công nghệ dù mang lại nhiều lợi ích, nhưng trên thực tế, đổi mới công nghệ không phải là điều dễ dàng với nhiều DN. Hiện nay, việc DN chưa quan tâm nhiều đến quản trị đổi mới công nghệ bắt nguồn từ một số nguyên nhân căn bản sau:

Một là, nguồn lực tài chính còn hạn chế. Hầu hết các DN vẫn còn thiếu về nguồn lực tài chính để triển khai đầu tư đổi mới công nghệ. Hiện 96% DN Việt Nam là DN nhỏ và vừa, trong số đó, các DN sản xuất trực tiếp chỉ chiếm tỷ lệ thấp. 

Do quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính hạn hẹp nên năng lực đổi mới công nghệ của các DN nhỏ và vừa cũng rất hạn chế.Thống kê cho thấy, kinh phí cho nghiên cứu và phát triển của các DN Việt Nam chỉ ở mức trung bình và thấp hơn nhiều quốc gia trong khu vực.

Hai là, DN chưa quan tâm đến hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) khoa học công nghệ để năng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy phát triển. Theo nghiên cứu “Tăng cường sức cạnh tranh và liên kết DN vừa và nhỏ” mà Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố mới đây, mức chi trả cho hoạt động R&D của DN Việt Nam đang kém hơn so với Campuchia và thuộc “top” dưới trong khối các nước Đông Nam Á. 

Cụ thể, các DN Việt chỉ chi 1,6% doanh thu hàng năm cho R&D, trong khi tỷ lệ này ở Campuchia là 1,9%, Lào 14,5%. So với Philippines và Malaysia, Việt Nam cũng thua kém khi mà tỷ lệ dành tiền cho R&D của các DN ở hai nước này lần lượt là 3,6% và 2,6%.

Với việc không coi trọng R&D như vậy, báo cáo chỉ ra rằng chỉ có khoảng 23% các DN Việt Nam đã tuyên bố đã giới thiệu một sản phẩm, dịch vụ mới hoặc được cải thiện sản phẩm trong vòng 3 năm gần đây. Xét về tổng quan, khi so sánh với các DN trong cùng khu vực, WB tổng kết rằng các mức độ về đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, tỷ lệ chi cho R&D của DN Việt Nam đều ở vào mức trung bình tại Đông Nam Á. Ngoài ra, ở Việt Nam chỉ có 26% DN vừa và lớn tuyên bố có chi cho đầu tư R&D, trong khi chỉ có 9% DN nhỏ thực hiện điều này.

Ba là, các chính sách về hỗ trợ cải tiến, đổi mới công nghệ chưa thực sự hấp dẫn, chưa có đủ cơ sở pháp lý để thúc đẩy và thu hút DN đầu tư đổi mới công nghệ. Nhiều DN cho rằng, chương trình hỗ trợ DN đổi mới công nghệ của Chính phủ rất thiết thực, song DN khó tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, lĩnh vực được hỗ trợ còn bó hẹp, điều kiện hỗ trợ khắt khe và một số chủ trương của Nhà nước cũng vướng mắc khi triển khai vào thực tế...

Bốn là, các DN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa cũng đối mặt với hàng loạt khó khăn, rào cản khi đổi mới, ứng dụng công nghệ cao vào hoạt động sản xuất, kinh doanh như: Thiếu nhân lực trình độ, thiếu vốn đầu tư, thiếu thông tin; Không biết đánh giá như thế nào để lựa chọn công nghệ thích hợp nên chi phí đầu tư thường cao hơn so với giá trị thương mại của công nghệ mua về; Chưa quen có kinh nghiệm trong việc lựa chọn hình thức phù hợp để mua công nghệ và đàm phán hợp đồng chuyển giao công nghệ với các nhà cung cấp; Chưa chú trọng đầu tư cho các hoạt động thích nghi, làm chủ và cải tiến công nghệ mua về nên hiệu quả ứng dụng chưa cao…

Một số kiến nghị và đề xuất

Nhằm nâng cao công tác quản trị đổi mới công nghệ trong DN, thời gian tới cần chú ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cần nhận thức đúng đắn về yêu cầu đổi mới công nghệ. DN cần đóng vai trò chủ động, là trung tâm của hoạt động đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ là nhu cầu tự thân vận động của DN, Nhà nước chỉ tạo môi trường pháp lý thuận lợi chứ không làm thay. 

Thứ hai, thực hiện hiệu quả và đồng bộ các cơ chế, chính sách khuyến khích DN, đặc biệt là chính sách hỗ trợ về tài chính nhằm thúc đẩy DN triển khai các hoạt động đổi mới công nghệ và cải thiện năng lực quản trị công nghệ.

Thứ ba, chú trọng tổ chức đào tạo về quản lý công nghệ, quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ mới cho DN; tăng cường bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về đổi mới công nghệ cho cán bộ quản lý DN.

Thứ tư, hỗ trợ DN nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm, ứng dụng công nghệ tiên tiến, đào tạo, thuê chuyên gia thiết kế, sản xuất sản phẩm mới và thay đổi quy trình công nghệ. Hỗ trợ hình thành các cơ sở ươm tạo DN khoa học và công nghệ nghiên cứu, ứng dụng và sản xuất sản phẩm mới. Hỗ trợ DN kinh phí sử dụng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia để nghiên cứu, thiết kế và chế tạo các sản phẩm mới.

Thứ năm, tạo điều kiện thuận lợi để các DN Việt Nam hợp tác với các tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân và DN nước ngoài phát triển công nghệ, tham gia các triển lãm, hội chợ công nghệ và thiết bị ở nước ngoài. Tổ chức, phối hợp và hỗ trợ các DN trong việc hợp tác với các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ để giải mã làm chủ công nghệ nhập khẩu nhằm nâng cao khả năng quản trị công nghệ. 

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2012), Nghị quyết số 20/NQ-TW ngày  01/11/2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế;

2. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 677/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 về việc phê duyệt Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020;

3. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020;

4. ThS. Nguyễn Thị Bích Liên (2017), Cách thức đổi mới công nghệ của DN nhỏ và vừa, Đại học Vinh;

5. Bình An (2017), DN cần nâng cao năng lực quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ, Báo Kinh tế Đô thị;

6. Thanh Hồ (2017), DN chậm đổi mới công nghệ, Petrotimes.

Zalo
favebook
favebook
0982.335.335